Thứ Năm, 24 tháng 11, 2011

BÁO ÂN

Đây là chuyện có thật xảy ra năm 2008 tại Trung Quốc

Một chiếc xe bus 16 chỗ chở đầy khách đang chạy trên đường quanh co uốn lượn của vùng núi Tây Tạng hùng vĩ.
Trên xe có ba thằng du côn có vũ khí để mắt tới cô lái xe xinh đẹp. Chúng bắt cô dừng xe và muốn “vui vẻ” với cô.
Cô lái xe kêu cứu, nhưng tất cả hành khách trên xe chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Lúc ấy một người đàn ông trung niên gầy gò, yếu ớt tiến lên yêu cầu ba tên du côn dừng tay không được làm bậy. Nhưng ông đã bị chúng đánh đập. Ông rất giận dữ và lớn tiếng kêu gọi các hành khách khác ngăn hành động man rợ kia lại nhưng chẳng ai hưởng ứng. Cô lái xe bị ba tên côn đồ lôi vào bụi rậm bên đường...
Một giờ sau, ba tên du côn và cô lái xe tơi tả trở về xe. Cô thẫn thờ ngồi vào ghế, cầm vô lăng, khởi động máy để tiếp tục lên đường. Bỗng cô quay lại chỉ vào  người đàn ông vừa tìm cách giúp mình hét lên:
- Này ông kia, ông xuống xe đi!.
Người đàn ông sững sờ, nói:
- Cô làm sao thế? Tôi mới vừa tìm cách cứu cô, tôi làm thế là sai à?.
- Cứu tôi ư? Ông đã làm gì để cứu tôi chứ?. Cô lái xe hỏi vặn lại và vài hành khách bình thản cười ồ.
Người đàn ông thật sự tức giận. Dù ông đã không có khả năng cứu cô, nhưng ông không thể bị đối xử như thế. Ông quát lên:
- Tôi đã trả tiền nên tôi có quyền ở lại xe.
Cô lái xe nhăn mặt nói:
- Nếu ông không xuống, xe sẽ không chạy.
Điều bất ngờ là hành khách, vốn tảng lờ lảng tránh hành động man rợ mới đây của bọn du côn lại nhao nhao lên tiếng yêu cầu người đàn ông xuống xe. Họ nói:
- Ông ra khỏi xe đi. Chúng tôi có nhiều công việc đang chờ và không thể trì hoãn thêm chút nào nữa!
Một vài hành khách khỏe hơn xúm lại lôi người đàn ông xuống xe.
Ba tên du côn mỉm cười với nhau một cách khoái chí và bình luận:
- Chắc tụi mình đã phục vụ cô nàng ra trò đấy nhỉ?
Sau nhiều lời qua tiếng lại, hành lý của người đàn ông bị ném qua cửa sổ và ông bị đẩy ra khỏi xe.
Chiếc xe bus tiếp tục cuộc hành trình. Cô lái xe vuốt lại mái tóc rối bù và vặn nhạc to hết cỡ.
Xe lên đến đỉnh dốc. Phía tay phải xe là một vực thẳm sâu hun hút. Tốc độ của xe bus tăng dần. Gương mặt cô lái xe bình thản, hai bàn tay giữ chặt vô lăng. Nước mắt trào ra trong hai mắt cô.
Một tên du côn nhận thấy có gì không ổn, hắn nói với cô lái xe:
- Chạy chậm thôi, mày định làm gì thế hả?.
Cô gái không nói gì và tiếp tục nhấn ga.
Tên du côn nhảy vào tìm cách giằng lấy vô lăng. Nhưng đã quá muộn. Chiếc xe bus lao xuống vực như mũi tên bật khỏi cây cung...
Hôm sau, báo địa phương đưa tin về một vụ tai nạn bi thảm xảy ra ở vùng Phục Hổ Sơn: Một chiếc xe 16 chỗ ngồi đã gặp nạn rơi xuống vực, tài xế và 13 hành khách đều thiệt mạng.
Tại một quán cóc ven đường, người đàn ông bị đuổi xuống xe đọc tờ báo và òa khóc. Không ai biết ông khóc cái gì và vì sao ông khóc.

Thứ Ba, 15 tháng 11, 2011

KỶ NIỆM MỘT CHUYẾN ĐI

Tôi nhớ kỳ nghỉ đông năm thứ 3 Trường tổ chức chuyến dã ngoại 3 tỉnh miền tây Mông cổ. Mục đích của chuyến đi là để kiểm tra kết quả đào tạo thông qua  học sinh đã tốt nghiệp và tìm hiểu nhu cầu đào tạo của thực tiễn sản xuất. Để khuyếch trương Ban giám hiệu đã đưa cả đoàn ca múa của trường đi theo biểu diễn. Đoàn ca múa của trường được tổ chức tương đối hoàn hảo. Đội múa và hát được tuyển từ các khoa đều là sinh viên hoa khôi năm thứ nhất. Tôi là sinh viên nước ngoài vừa là ca sĩ vừa là nhạc công cho nên rất được ưu ái cũng vì thế mà tôi bị thiệt thòi so với các bạn Mông cổ. Di chuyển giữa các tỉnh tôi phải bay cùng Ban Giám hiệu . Tuy vậy đến các tỉnh tôi lại được cùng đi, cùng sinh hoạt với đoàn cho nên cũng có nhiều kỷ niệm khó quyên.


Thời đó không có khách sạn hay nhà nghỉ như bây giờ. Đi đến địa phương nào là được bố trí vào nghỉ ở ký túc xá của Trường Trung cấp Nông nghiệp tỉnh miễn phí. Ngày đầu tiên đến Bayan-Olgii một tỉnh miền cực tây của Mông cổ. Đây là tỉnh chỉ có núi và rừng với dân tộc Mông cổ và Kazakh sống là chủ yếu. Cả tỉnh là khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia. Mùa đông tuyết phủ trắng ngút ngàn. Rừng thông phủ tuyết trông giống như tiên cảnh. Tuy nhiên lạnh ơi là lạnh. Nhiệt độ ở đây không khác gì vùng Xiberi của Nga.


Chiều hôm đó khi tôi đến thì đoàn ca nhạc đã đến trước và đã lo chỗ ăn, ở đàng hoàng. Tôi được phân công ở cùng phòng với anh trưởng đoàn và 2 cậu nhạc công. Tất nhiên là chúng tôi rất thân quen vì đã học và tham gia văn nghệ với nhau mấy năm trời. Sau khi khớp nhạc và tổng duyệt lại chương trình, chúng tôi đi ăn tối. Bữa ăn tại một nhà hàng ở vùng cực tây của Mông cổ có một món rất đặc biệt đó là dưa bắp cải. Lá cải bắp già được muối chua ăn với thịt cừu và thịt dê béo ngậy thật không gì bằng. Đối với tôi nó đặc biệt bởi món dưa đã nhắc tôi nhớ về những ngày khó khăn gian khổ ở quê nhà. Tuổi ấu thơ của tôi là vại dưa và chum tương trong mỗi gia đình người nông dân Việt nam thời đó. Quê tôi là nơi chuyên trồng rau cung cấp cho Hà nội. Rau ngon thì phải cân cho Nhà nước còn lá già được giữ lại để muối dưa cho người và lá già hơn thì làm thức ăn cho lợn. Món dưa bắp cải gắn với tôi suốt những năm tuổi thơ thời chống Mỹ. Bởi thế khi được ăn món này tại nơi đây tuy mùi vị không giống lắm nhưng đã gợi trong tôi nỗi nhớ nhà da diết.


Buổi tối để giết thời gian chúng tôi tổ chức chơi lơ-khơ kiểu Mông cổ. Mỗi bàn 4 người chia làm 2 đôi. Nguyên tắc chơi là các đôi phải một nam, một nữ và người thắng được hôn còn người thua thì bị hôn. Cuộc chơi vui vẻ ầm ĩ cả ký túc xá. Đang kỳ nghỉ đông cho nên không ảnh hưởng đến sinh viên của trường. 12 giờ đêm, trưởng đoàn ra lệnh phải đi ngủ hết để sáng hôm sau biểu diễn một số tiết mục tủ chào mừng lễ tổng kết công tác cuối năm của tỉnh.


Sáng hôm sau buổi biểu diễn trong vòng 45 phút cũng đủ ca, múa , nhạc thành công ngoài sức tưởng tượng. Riêng tiết mục của tôi thực sự là kỷ niệm khó quyên đối với tôi. Tôi nhớ khi biểu diễn xong Bà Chủ tịch tỉnh lên sân khấu ôm hôn tôi. Bà nói mấy câu về cuộc chiến tranh của nhân dân Việt nam và những tình cảm của nhân dân Mông cổ đối với Việt nam. Bà cởi chiếc khăn len trên cổ xuống quàng cho tôi và nhắc tôi luôn nhớ quàng khăn cho ấm cổ để không bị ốm trong những ngày đông lạnh giá xa nhà, để bố mẹ ở Việt nam không phải lo lắng mà yên tâm đánh Mỹ . Tôi thực sự xúc động và tôi đã khóc. Tôi cầm Micro nghẹn ngào, mấy phút sau tôi mới nói được mấy câu cám ơn Bà và nhân dân Mông cổ đã chở che và dạy dỗ chúng tôi nên người. Cả Hội trường vỗ tay không ngớt. Chiếc khăn len màu hồng nhạt tôi vẫn giữ đến tận bây giờ và sẽ truyền lại cho các con tôi để nhớ mãi tình cảm vô bờ bến của một dân tộc luôn lấy tình thương yêu làm lẽ sống của cuộc đời. Một dân tộc tuy còn muôn vàn khó khăn nhưng đã hết lòng ủng hộ cả về tinh thần lẫn vật chất cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt nam.


Buổi tối chúng tôi biểu diễn tại Nhà văn hóa tỉnh. Cả hội trường kín chỗ ngồi. Các bạn biết rằng vé bán với giá 50 tukrik là rất đắt so với lương bình quân tháng của một kỹ sư lúc đó chỉ 1000 tukrik. Thế mới biết là văn hóa văn nghệ đối đời sống nhân dân ở các vùng xa xôi, hẻo lánh quí giá biết bao.


Bữa cơm tối hôm đó tôi bị chúc đến say mèm. Có lẽ do rượu kém chất lượng mà cái say rất khó chịu và cứ chập chờn không ngủ được. Hậu quả của bữa liên hoan là sáng hôm sau đầu tôi đau khủng khiếp và mệt mỏi vô cùng. Đau đến nỗi bữa sáng tôi không ăn được gì. Lịch trình lại phải bay ngay về khu nghỉ đông để kịp buổi biểu diễn chiều và tối. Anh trưởng đoàn lo quá không biết làm thế nào vì sợ bị Ban Giám hiệu quở trách. Lúc đó cậu P. Bold đánh Gitar bass hiến kế là dùng độc trị độc. Tức là dùng rượu trị say. Tôi khiếp quá không đồng ý nhưng 3 thằng quỉ sứ to lớn như Trương Phi đã bẻ quặt tay tôi và dốc vào mồm tôi một ca nhôm đầy rượu. Tôi nuốt vì sợ bị sặc. Sau đó chúng dìu tôi lên máy bay. Quả là hiệu nghiệm. Chỉ 15 phút sau tôi thấy mồ hôi toát đầy mình, người nóng bừng và... hết cả đau đầu. Thật đúng là thuốc tiên. Buổi trưa hôm đó tôi ăn cơm rất ngon vì bụng đói meo và suất diễn buổi chiều và tối tôi đều tham gia đầy đủ. Kể từ ngày đó cứ mỗi lần bị đau đầu, mỏi mệt do bị quá say là tôi lại áp dụng bài thuốc này và thấy kết quả thật diệu kỳ.


Tôi luôn thầm cám ơn số phận đã cho tôi cơ hội gặp gỡ được những người bạn tuyệt vời và cho tôi có được những kỷ niệm không thể nào quên suốt cuộc đời.

Thứ Bảy, 5 tháng 11, 2011

CÁI CHẾT VÀ CUỘC SỐNG SAU CÁI CHẾT

Lời tựa: Tôi làm công tác nghiên cứu Di truyền động vật gần 40 năm. Nghề này phải học chuyên sâu các môn có liên quan đến lĩnh vực sinh học như hóa sinh, lý sinh, thống kê sinh học, di truyền học, động thực vật học... Công tác nghiên cứu là phải lý giải được các hiện tượng không theo qui luật sinh học để qua đó tìm giải pháp giải quyết nhằm thu được hiệu quả cao nhất phục vụ cho cuộc sống con người. Những câu hỏi “tại sao” cứ luôn xuất hiện và để lý giải chúng tôi phải tìm hiểu cả sang lĩnh vực di truyền người vì lĩnh vực này đã được nghiên cứu nhiều và sâu nhất. Cứ như vậy tôi đã chuyển sang tìm hiểu lĩnh vực tâm linh lúc nào không hay. Tuy nhiên tôi chỉ tiếp cận được với những thông tin ít ỏi trên ấn phẩm cũ còn lại chủ yếu thông qua các câu chuyện dân gian truyền miệng. Năm 1990 tình cờ tôi nhìn thấy cuốn sách bỏ túi có tên “La mort est un nouveau soleil” của Tiến sĩ Kubler-Rosse trong quầy sách rong trên đường phố Paris. Tôi thực sự vui mừng và tiếp tục nhờ bạn bè sưu tầm được một số công trình nghiên cứu về cái chết của các Nhà khoa học như Raymond A. Moody Jr., Bantam Brick , Léon Denis ... Càng đọc tôi càng NGỘ ra nhiều vấn đề để lý giải các hiện tượng phi vật chất mà khi ấy chúng ta gán cho cái mác là MÊ TÍN DỊ ĐOAN.



Để hiểu được các luận đề của các Nhà khoa học nghiên cứu về cái chết, các bài kinh phật, kinh thánh và nhất là các bài thuyết giảng của các bậc thiền sư, chúng ta cần tuân thủ và thống nhất một số vấn đề sau:

1.               Không nhìn nhận mọi khía cạnh theo kiến thức vật lý thông thường bởi mọi qui luật của vật lý này chỉ phù hợp trong không gian mà tốc độ chuyển động tối đa là tốc độ ánh sáng (300.000 km/s);

2.               Vũ trụ bao la của chúng ta là vũ trụ đa chiều hay nói cách khác  là đa không gian;

3.               Vật chất chuyển hóa từ thấp đến cao, từ dạng này sang dạng khác và tồn tại trong không gian theo các bậc phụ thuộc vào tốc độ chuyển động của không gian đó;

4.               Mỗi một vật thể dù sống hay chết đều chịu sự tác động tương hỗ đa chiều trong vũ trụ.
5.               Ranh giới giữa các không gian luôn có những điểm đứt gãy ( Cổng không gian) cho phép vật thể của không gian này dễ dàng đi sang không gian khác...
Sau đây chúng ta cùng tìm hiểu CÁI CHẾT và CUỘC SỐNG SAU CÁI CHẾT thông qua các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học.


1.      Cái chết

 Các bác sĩ như Kubler-Rosse , Raymond A. Moody Jr., Bantam Brick ... đã phỏng vấn hàng ngàn người đã bị chết lâm sàng được cứu sống lại, tường thuật những gì họ đã thấy trong khi chết. Hầu hết các nhân chứng đều thấy các hiện tượng như sau:

Người đã chết lâm sàng vẫn nghe thấy bác sĩ tuyên bố rằng mình đã chết. Họ bắt đầu nghe thấy một tiếng ồn ào khó chịu, như tiếng chuông reo hoặc tiếng vo vo lớn, đồng thời thấy mình bị chuyển rất nhanh qua một đường hầm dài đen tối. Sau đó họ bỗng thấy mình ở ngoài thân xác , lơ lửng cách thân xác khoảng 2-3 m. Họ trông thấy rõ thân xác mình như người ngoài đứng xem và thấy những người vây quanh cố làm cho thân xác hồi tỉnh.  

Một lát sau, họ định thần lại và hơi quen với tình trạng lạ lùng nầy và nhận thấy rằng họ vẫn còn có một thân hình, nhưng bản chất khác hẳn và có khả năng khác hẳn cái thân xác để lại. Rồi có những người khác đã chết trước đến gặp và giúp đỡ họ. Một vầng ánh sáng rực rỡ hiện ra trước mặt . Vầng ánh sáng đó giúp họ kiểm điểm lại toàn bộ cuộc đời bằng cách tái hiện lại những diễn biến quan trọng trong cuộc sống đã qua của họ. Có lúc họ thấy bản thân đến gần tựa như hàng rào hoặc địa giới, tượng trưng giới hạn giữa đời sống trần gian và đời sống bên kia.   Lúc ấy họ thấy những cảm giác mừng vui, yêu thương và yên bình tràn ngập trong họ và họ không muốn trở về nữa.  

Sau khi tỉnh lại, họ muốn kể lại những gì đã thấy với người khác, nhưng họ cảm thấy khó khăn bởi họ không tìm được lời nói chuẩn để diễn tả những gì họ đã trông thấy hoặc cảm thấy. Nhất là họ sợ bị người khác không tin và chế riễu nên họ đã không kể cho ai. Tuy nhiên, những trải nghiệm đó đã ảnh hưởng mạnh vào cách sống của họ, nhất là quan niệm của họ về sự sống và cái chết .

 Tôi xin phép được tóm tắt lại các trải nghiệm cận tử như sau:



 Thấy người sống  

Phần lớn các trường hợp đều kể lại là đã thấy các Bác sĩ sốc điện, chích thuốc... cấp cứu họ ra sao; Các Bác sĩ đã ăn mặc thế nào, nói với nhau những gì;  Họ cố cử động và nói cho các Bác sĩ biết, nhưng không được; Họ nghe thấy tổ cấp cứu nói đã chích cho họ bao nhiêu c.c. thuốc gì, nhưng họ không cảm thấy đau khi kim đâm vào thịt...



Trở về hoàn nguyên

Một số người bị chết lâm sàng về bệnh tim sau khi tỉnh lại nói: Tôi bắt đầu thấy một cảm giác sung sướng kỳ lạ nhất, là không còn cảm thấy gì ở thế gian nữa, ngoài cảm giác bình yên , thoải mái, nhẹ nhàng không còn đau đớn lo buồn gì nữa. Tôi tự nghĩ: thật dễ chịu biết bao, hết bệnh rồi! Một số bị bệnh viêm khớp hay ung thư đều cảm thấy không còn bệnh tật, không còn bị đau đớn nữa.




Ðường hầm đen tối hay cây cầu

Nhiều bệnh nhân khác nhau đã tả hiện tượng nầy.

Một ông nói: 27 năm trước, khi tôi mới 9 tuổi, bị bệnh và bị chụp thuốc mê. Tôi nghe thấy tiếng vo-vo, rồi thấy mình đi qua một đường dài đen tối, tựa như ống cống. Về sau nghe nói rằng tim tôi đã ngừng đập.

Một ông khác nói: Sau khi bị đánh thuốc mê, tôi không thở nữa, tôi cảm thấy đi qua một khu đen tối, tựa như đường hầm với tốc độ kinh khủng.

Một ông nữa tim đã ngừng đập sau một tai nạn xe cộ: Tôi cảm thấy đi qua một cây cầu.

Một bà chết vì bị bệnh sưng màng ruột nói: Bác sĩ gọi anh chị tôi vào cho tôi gặp lần cuối, rồi y tá chích thuốc mê cho tôi. Tôi thấy mọi vật trong bệnh viện dần dần xa tôi. Tôi chui vào một lối đi nhỏ hẹp hình như chỉ vừa đủ cho tôi chui lọt, sau đó tôi đi ngang qua một cây cầu.



Rời khỏi thân xác (xuất hồn)

Một bà kể lại: Tôi bị đau tim, nằm trong bệnh viện. Ngực tôi đau lắm, tôi bấm chuông gọi y tá, rồi tôi hết thở. Tim tôi ngừng đập. Tôi thấy tôi tụt ra khỏi giường xuống sàn, rồi tôi đứng lên. Có nhiều y tá chạy đến, chừng 10, 12 người, họ gọi bác sĩ và tôi thấy bác sĩ đi vào phòng. Tôi bay bổng lên cao ngang qua đèn trên trần mà tôi trông thấy rõ, rồi ngừng lại, lơ lửng gần trần nhìn xuống. Có cảm tưởng như tôi chỉ là một tờ giấy bị thổi lên trên không. Từ trên cao tôi nhìn xuống xem họ cố gắng làm cho tôi hồi tỉnh. Thân xác tôi nằm dưới kia, chân tay duỗi thẳng rõ ràng, mọi người vây quanh. Một y tá nói: "trời ơi bà ấy đi rồi!" trong khi đó một y tá khác thổi hơi vào mồm tôi, tôi thấy rõ sau gáy cô ấy cắt tóc ngắn. Họ đập vào ngực tôi, xoa bốp chân tay tôi. Tôi tự nghĩ: tại sao họ phải cực nhọc như thế, tôi vẫn khỏe mạnh đây mà !

Một anh chàng tuổi trẻ kể lại: Tôi lái xe đưa bạn tôi về, đến một ngã tư nhìn hai bên không thấy gì tôi đi tới, bỗng nghe bạn tôi hét lên, đồng thời thấy đèn của một xe khác phóng tới rồi nghe một tiếng "Rầm" kinh khủng. Ngay lúc đó tôi hình như đi qua một khu đen tối nhanh lắm, rồi thấy tôi lơ lửng trên cao cách xe vài thước. Tôi còn nghe tiếng đụng xe vang dội ra xa. Thấy nhiều người chạy đến vây quanh xe, và bạn tôi chui ra khỏi xe. Tôi thấy thân thể tôi bị kẹt lại trong xe, họ xúm lại kéo ra, hai chân gãy nát máu tuôn khắp nơi.

Các bác sĩ và y tá đập vào thân tôi và cố chích thuốc cho tôi hồi lại. Tôi bảo họ: Để mặc tôi, đừng đập vào tôi nữa, nhưng họ không nghe gì cả. Tôi đập vào tay họ... vô ích, tôi kéo tay họ cũng không được. Tôi đánh mạnh vào tay họ, nhưng tay họ không nhúc nhích. Mọi người đi tới đi lui. Tôi trông thấy họ và cùng ở với họ trong hành lang hẹp, nhưng họ đi họ cứ nhìn thẳng mà không để ý đến tôi.

Một người khác bị tai nạn xe kể lại: Trên quãng đường cong tôi không điều khiển được xe nữa, xe văng lên trên không. Tôi còn nhớ trông thấy trời xanh, rồi thấy xe nằm dưới rãnh. Tôi biết rằng tôi bị tai nạn xe. Nhưng bỗng dưng tôi không cảm thấy thân hình tôi nữa. Tôi chui ra khỏi thân tôi qua đầu tôi, không thấy đau đớn gì cả, như là bay lên. Không còn có cảm giác vật chất, thấy thân không cứng rắn mà nho nhỏ, hơi tròn, tựa như một đám mây. Khi nó ra khỏi thân hình, tựa hồ như phần to ra trước, phần nhỏ ra sau, ra rất nhẹ nhàng, như không có trọng lượng. Nó không phải là vật chất nếu dùng lời nói thông thường thì có thể diễn tả bằng nhiều cách, nhưng không cách nào đúng cả, vì không có lời nào tả được đúng.



Gặp những người đã chết trước

Một bà bị chết lâm sàng lúc sinh sản khó kể lại: Tôi mất nhiều máu. Bác sĩ hết hy vọng bảo thân nhân của tôi rằng tôi sắp chết. Nhưng tôi vẫn sáng suốt và trông thấy trên trần nhà lơ lửng nhiều người. Họ đều là những người quen biết đã chết rồi. Tôi nhận ra bà tôi và nhiều họ hàng bạn hữu. Tôi cảm thấy rằng họ tới giúp tôi và dẫn dắt tôi, hình như tôi về nhà và họ đến chào đón tôi. Thật là một cảnh vui mừng.

Một ông kể rằng: khi tôi ra khỏi xác thân, tôi cảm thấy đứng gần tôi một người bạn mới bị giết mấy tuần trước, nhưng không trông rõ như xác thân bằng xương thịt. Tôi hỏi anh ta: "cái gì đã xảy ra, tôi đi đâu, có phải tôi đã chết không?" Nhưng anh ấy không nói một lời. Khi tôi nghe bác sĩ nói: " nó sắp sống lại" thì anh ta đi mất.



Vầng sáng

Rất nhiều người thấy một vầng ánh sáng hình hoa sen, sáng kỳ diệu không từng thấy, nhưng mắt không bị chói lóa mà vẫn trông rõ mọi vật chung quanh. Nó là ánh sáng nhưng có tính cách như là một con người. Tình thương nồng nàn mà vầng sáng ấy tỏa ra không thể diễn tả được và họ cảm thấy bị bao bọc, bị hút vào không cưỡng lại được, mà vẫn cảm thấy hoàn toàn dễ chịu.

Rồi vầng ánh sáng giao cảm với người mới chết không phải bằng lời nói hay tiếng động gì cả, mà chỉ là ý nghĩ được hiểu rất rõ ràng, không thể lầm được. Sự trao đổi ý nghĩ không phải bằng tiếng mẹ đẻ của người chết, nhưng người nầy tự nhiên hiểu được hoàn toàn, tuy nhiên khi tỉnh lại không thể nào thuật lại bằng lời mà họ thường nói. Ðại ý câu hỏi là: "Anh đã sửa soạn chết chưa? Anh đã sẵn sàng chết chưa? Anh cho tôi biết anh đã làm những gì trong đời anh. Anh đã làm đầy đủ chưa?" Mọi người nhấn mạnh rằng câu hỏi ấy không hàm ý buộc tội, mà họ vẫn cảm thấy tình yêu thương chan chứa. Câu hỏi ấy chỉ khiến cho họ hồi tưởng lại cuộc đời đã qua.

Một người kể lại khi gặp vầng sáng trong trắng đẹp rực rỡ mà thực sự không thấy có hình người. Vầng sáng đó tỏa ra tình thương và sự hiểu biết hoàn toàn và khi anh ta có ý hỏi: " Anh có thương tôi không?" thì cảm thấy trả lời: "Nếu anh thương tôi thì anh hãy trở về làm nốt công việc của anh trên đời."

Một người nữa kể: Tôi biết tôi sắp chết, nhưng không làm sao được, vì không ai nghe thấy tôi cả. Tôi ở ngoài thân xác tôi và thấy rõ thân tôi nằm trên bàn mổ. Hồn tôi xuất rồi! Tôi cảm thấy buồn, nhưng ngay lúc đó có một ánh sáng rực rỡ đi tới, tôi cảm thấy ấm áp. Ánh sáng trắng, hơi vàng, sáng lắm không tả được. Hình như bao trùm tất cả, nhưng tôi vẫn trông thấy rõ: Phòng mổ, bác sĩ, y tá, mọi vật. Ánh sáng ấy hình như hỏi tôi rằng tôi đã sẵn sàng chết chưa. Rồi tôi lại cảm thấy ý nghĩ rằng tôi chưa sẵn sàng. Tình thương do ánh sáng tỏa ra không thể tưởng tượng, không thể diễn tả được.


Tổng duyệt lại cuộc đời

 Hầu hết các trường hợp cận tử đều trải qua hiện tượng xem lại toàn bộ cuộc đời đã qua của họ. Giống như hoạt cảnh hiện ra nhanh chóng phi thường và không theo trình tự thời gian mà nhớ lại tất cả các việc cùng một lúc tùy thuộc vào cái chết nhanh hay chậm.

Tuy nhiên ai nấy đều nhận rằng mặc dù sự ôn lại diễn biến nhanh chóng cực độ, nhưng hình ảnh bày ra trước mắt sinh động và xác thực không thể tưởng tượng. Không chỉ những hình ảnh mà tất cả cảm giác cũng đều sống động lại. Vầng sáng có vẻ muốn nhấn mạnh vào hai điểm: Kiểm điểm lại những việc làm tốt hay xấu trong cuộc đời để học yêu thương người khác và thâu lượm sự hiểu biết.

Sau đây là lời thuật lại của vài người trong cuộc:

Vầng sáng như nói với tôi: "Anh cho tôi biết những gì anh đã làm trong đời anh " Tức thì quá khứ hiện ra, tôi thấy khi tôi còn nhỏ mỗi năm lớn lên cho đến ngày nay. Tất cả những việc đi chơi, đi học, buồn, vui hiện như thật đủ cả ba chiều chứ không hai chiều như màn ảnh, có màu sắc, lúc nào cũng thấy rõ ràng là tôi. Vầng sáng luôn luôn nhấn mạnh vào sự quan trọng của tình thương, cố gắng giúp đở người khác. Nhưng không phải là bắt lỗi tôi khi tôi làm điều không phải, mà chỉ là để cho tôi thấy đó mà học hỏi, tôi cần tiếp tục học hỏi. Lạ thật, tôi  thấy những cảnh về quá khứ mà tôi là chủ thể ở trong đó, vậy mà đi nhanh thế! Nhưng mà lại cũng đủ chậm để cho tôi cảm nhận được. Tất cả chỉ trong thời gian rất ngắn, hình như chưa đến năm phút, hay hơn nửa phút, tôi không thể nói chắc.

Một người lái xe vận tải sống lại đã kể: Khi lái xe tôi buồn ngủ quá, nghe một tiếng rít kinh khủng, rồi nổ lớp xe bên phải, xe xoay ngang lại nổ lớp bên trái, xe lật nghiêng và trượt thẳng đến chiếc cầu. Tôi sợ quá biết rằng xe sẽ húc vào cầu. Trong thời gian xe trượt tôi bỗng nghĩ đến tất cả các việc đã làm, và trông thấy như thật. Ðầu tiên tôi thấy tôi theo cha tôi ra biển khi tôi hai tuổi, dần dần đến khi năm tuổi tôi đánh gãy đồ chơi, rồi tôi khóc khi bắt đầu đi học, thấy các việc mỗi năm cho đến khi đi làm. Tất cả hình ảnh đó thoáng qua rất nhanh chóng, rồi tôi thấy tôi đứng đó nhìn chiếc xe nát bấy mà tôi chẳng sao cả. Tôi tưởng tôi đã chết, chỉ là một hồn ma. Tôi thử cấu véo vào mình... đau... thì ra tôi vẫn sống. Chẳng hiểu tại sao tôi đã bay qua tấm kính vỡ tan. Khi tôi bình tĩnh trở lại, tôi nghĩ thật là kỳ lạ, tôi đã thấy những hình ảnh đó chỉ trong một giây, mà bây giờ tôi muốn nhớ lại phải mất 15 phút.

Một người leo núi bị rơi từ vách núi cao đã kể lại: Khi dây an toàn đứt tôi đã thấy lại toàn bộ cuộc đời như xem một cuốn phim. Tất cả những sự kiện đó hiện về rõ mồn một trước mắt tôi.


Ðường giới hạn.

Một số người kể lại họ đến gần đường giới hạn, người thì nói là một dòng nước, người nói một đám sương mù, hoặc một hàng rào, một cái cửa.

Một người kể: Tôi bị bệnh tim, khi tim ngừng đập, tôi thấy tôi ở trên một cánh đồng xanh đẹp, màu sắc khác hẳn mọi vật trên trần. Một ánh sáng đẹp bao phủ quanh tôi. Tôi nhìn thẳng trước mặt thấy một hàng rào. Tôi tiến đến hàng rào thấy một người ở bên kia cũng tiến đến như để gặp tôi. Tôi muốn đến gần người ấy nhưng cảm thấy bị kéo trở lại, không cưỡng được, rồi cũng thấy người ấy quay đi.

Một bà kể: Tôi mang thai đứa con đầu lòng được tám tháng. Bác sĩ bảo vì bệnh trạng của tôi cần phải lấy thai ra. Tôi bị băng huyết mất nhiều máu. Tôi mê đi nghe tiếng vo vo khó chịu. Rồi tôi thấy tôi ở trên một chiếc tàu nhỏ tiến sang bờ bên kia một con sông rộng. Xa xa trên bờ tôi trông thấy những người thân yêu đã chết, Cha tôi, mẹ tôi, chị tôi và người khác. Họ hình như vẫy tôi nhưng tôi nói: Không , không tôi chưa sẵn sàng, tôi chưa muốn chết.

Ðiều rất lạ lùng là cùng trong khi ấy tôi vẫn trông thấy các bác sĩ và y tá săn sóc thân xác tôi. Tôi như một người khán giả. Tôi cố đến gần bác sĩ và nói: Tôi chưa chết nhưng chẳng ai nghe thấy cả. Tất cả các hình ảnh về bác sĩ, y tá, phòng bệnh, chiếc tàu, nước, bờ, lẫn lộn với nhau như là chập vào nhau. Sau cùng tàu vẫn đến bờ bên kia thì quay đầu trở lại. Lúc ấy tôi tỉnh lại.

Một người khác kể: Tim tôi ngừng đập, tôi thấy quanh mình tôi đen tối, tôi biết tôi đã bỏ lại thân xác. Tôi đã chết, tôi kêu trời cứu tôi. Tức thì tôi ra khỏi chỗ tối, qua chỗ ánh sáng xám nhạt. Tôi chuyển rất nhanh. Xa xa trước mặt thấy một đám sương mù màu xám. Tôi vọt lên. Bên kia đám sương mù, thấy có nhiều người hình dáng như người sống, và cũng thấy những hình tựa như những nhà, tất cả trong một bầu ánh sáng rất đẹp, khác ánh sáng trên trần. Trong khi tiến đến gần, tôi cảm thấy vui mừng lạ thường, một cảm giác không lời nào tả được. Nhưng tôi chưa được đi qua đám sương mù, vì tôi thấy cậu tôi ở bên kia. Cậu tôi, người đã chết nhiều năm trước, bảo tôi: "Về đi, công việc của cháu chưa xong cháu phải về". Tôi không muốn quay trở lại nhưng tôi bừng tỉnh lại và thấy ngực đau kinh khủng.




Trở lại cuộc sống

Nhiều người lúc mới thoát khỏi xác muốn trở về, nhưng khi đã đi sâu ít nhiều vào phía bên kia, nhất là đi đã thấy quầng sáng, thì không muốn trở lại đời sống nữa, trừ những người còn cảm thấy có bổn phận phải về.

Một bà kể lại: Ðứng trước quầng sáng, tôi cảm thấy sung sướng lạ lùng, không muốn trở về nửa, nhưng tôi nhớ đến chồng và con tôi, tôi còn trách nhiệm tôi phải trở về.

Một bà khác nói: Tôi lơ lửng bên trên cái bàn, thấy rõ cả biết rằng tôi sắp chết , nhưng tôi lo cho các con tôi, tôi chưa đi được.

Một bà nữa nói: Bác sĩ đã bảo rằng tôi chết, nhưng tôi vẫn còn đây. Tôi cảm thấy sung sướng, không có gì là buồn cả. Khi tôi mở mắt, tôi thấy chị tôi và chồng tôi đứng bên, nước mắt còn chảy. Chắc rằng vì tình thương của chị tôi và chồng tôi mà tôi phải trở lại.

Một ông kể lại: Tôi đương lơ lửng trên trần, thấy họ vây quanh thân tôi. Khi họ truyền điện vào ngực tôi, thân tôi nẩy lên, tôi bỗng rớt xuống thân tôi như một cái bịch nặng, rồi tôi tỉnh lại.

Có người kể lại đã trở về qua cái đầu: Tôi cảm thấy như có một bên đầu to một bên đầu nhỏ. Khi tai nạn xảy ra và nó thoát ra khỏi thân tôi, hình như bên đầu to chui ra trước, và khi trở về thì bên đầu nhỏ chui vào trước. 

Một người nữa kể: Tôi ở cách thân tôi mấy thước, thấy họ lôi thân tôi ra khỏi xe, rồi hình như vút một cái tôi bị lôi cuốn vào một khu nhỏ hẹp như là một cái ống đen tối, trở về thân tôi, khi tôi bị hút vào như thế, hình như sức hút từ đằng đầu và tôi chui vào đầu tôi. Nhanh chóng lắm không kịp suy nghĩ. Sau khi trở về cảm giác vẫn còn tồn tại trong một thời gian.

Nhiều người sau khi tỉnh lại nói: Tôi đã khóc cả tuần vì tôi không muốn trở về. Người khác nói: Sau nhiều ngày tôi vẫn còn cảm thấy thích thú kỳ lạ. Một người nữa nói: Không thể tả được, tôi không bao giờ quên cảm giác đó. Có nhiều cháu bé sau khi sống lại đã rất ghét và căm thù bác sĩ vì đã mang lại cho chúng đau đớn, bệnh tật.



Nhớ và kể lại

Không phải tất cả những người qua trải nghiệm cận tử đều có thể nhớ và kể lại những gì họ đã thấy trong thời gian chết lâm sàng. Theo Bác sĩ Kubler-Rosse chỉ khoảng 6-7 % bệnh nhân có thể nhớ và kể lại mà thôi.

Một người kể: Khi tôi ra ngoài xác thân tôi, tôi ngạc nhiên vô cùng, không thể hiểu được, nhưng thật là rõ ràng, tôi trông thấy xác thân tôi nằm kia, không xa.

Một người khác quả quyết: Không phải là ảo vọng. Xưa tôi đã có lần có ảo vọng trong bệnh viện vì codcine, nhưng bây giờ không phải ảo vọng tí nào.

Tuy rằng những người kể lại quả quyết rằng những gì đã thấy là sự thật chứ không phải ảo vọng, nhưng những người nghe tỏ ra ít thông cảm và hiểu biết, vì họ cho rằng sau cuộc thử thách với cái chết, tinh thần của những người bệnh đã bị rối loạn. Cho nên phần nhiều đã giữ yên lặng, chỉ dám kể cho vài người rất thân.

Có ông nói: Người ta bảo tôi là loạn trí. Người khác nói: Ngoài gia đình tôi, tôi không nói với ai khác, họ cho là bịa, là tưởng tượng.

Một lẽ nữa khiến nhiều người không nói ra được là vì họ không biết diễn tả thế nào bằng lời.


    Không có cái chết.

Những người đã trải nghiệm cận tử cho thấy rằng chết không phải là hết, chết không đáng sợ mà là đáng mừng, chết không phải là khổ mà lại là sung sướng, có cảm tưởng như trút bỏ hết mọi khổ đau đang phải gánh chịu trên cõi đời. Tuy nhiên không ai nghĩ đến việc đi tìm cái chết, mà có quan niệm phải làm tròn phận sự ở đời trước khi chết.

Không một ai nói đến những điều mà thế gian tưởng tượng như đường bằng vàng, cửa bằng ngọc, thiên thần hoặc là địa ngục có lửa cháy, có quỷ sứ tay cầm mũi xiên... Cũng không thấy có sự thưởng công và phạt tội. Các hình ảnh về cuộc đời đã qua được diễn ra trước mắt như một cuốn phim chỉ là để học hỏi, để cải thiện lầm lỗi, để linh hồn tiến hóa qua tình thương và hiểu biết. Sự tiến hóa ấy không bị ngừng vì cái chết.




Xác nhận

Nhiều bác sĩ đã xác nhận rằng những gì mà những bệnh nhân hồi tỉnh đã kể lại   đúng hoàn toàn với những hành động và lời nói của bác sĩ và y tá trong lúc cố gắng cứu sống họ lại.

Một người chị rất ngạc nhiên khi em gái đã nhắc lại hoàn toàn đúng lời nói của chị ở một phòng khác trong bệnh viện: "Kathy ơi, em đừng chết, em đừng chết".

Một người sau khi tỉnh lại đã kể cho cha nghe, sau khi tai nạn xảy ra, ai đã đem xác anh ta ra khỏi nhà, đem bằng cách nào, người ấy mặt áo màu gì, và những người chung quanh nói những gì. Người cha thừa nhận là đúng cả.

Một người nữa kể: Tôi bị bệnh phổi nặng, nằm trong bệnh viện. Tôi thiêm thiếp ngủ, thấy một quầng sáng hiện ra ở góc phòng, bên dưới trần. Ánh sáng tròn không to lắm, độ ba bốn tấc. Lúc ấy tôi cảm thấy yên tĩnh và thoải mái hoàn toàn. Tôi thấy một cánh tay từ quầng sáng thò xuống, tôi dơ tay lên nắm lấy. Tôi được kéo lên khỏi xác thân, trông xuống vẫn thấy xác thân nằm trên giường, mà tôi thì bay trên trần. Sau đó tôi xuyên qua trần và tường từ trong phòng ra đến hành lang, lại xuyên qua sàn xuống tầng dưới. Bay xuyên qua như thế không khó gì cả. Tôi thấy rằng chúng tôi đã xuống đến phòng hồi sinh của bệnh viện. Trước kia tôi không hề biết phòng hồi sinh ở đâu, nay chúng tôi lơ lửng ở góc phòng gần trần, nhìn xuống các bác sĩ, y tá và giường chung quanh. Quầng sáng chỉ cho tôi một cái giường và bảo tôi: "họ sẽ đưa anh từ bàn mổ xuống giường nầy, nhưng anh sẽ không bao giờ thức dậy cả. Anh sẽ không biết gì sau khi vào phòng mổ cho đến khi tôi trở lại dẫn anh đi". Lời nầy không phải là lời nói ra tiếng mà chỉ là một cảm giác truyền đến cho tôi nhưng rất rõ ràng. Sau đó chúng tôi trở về phòng bệnh và tôi thấy thân xác tôi vẫn nằm y nguyên như trước, rồi tôi lại nhập vào thân tôi.

Chiều hôm trước ngày mổ, tôi rất lo lắng. Tôi viết một lá thư cho vợ tôi và một cho cháu tôi, bày tỏ sự lo lắng, rồi tôi khóc. Bỗng tôi cảm thấy có một ai đó đứng cạnh . Tôi tưởng là một y tá nghe tôi khóc mà chạy đến, nhưng tôi không nghe thấy tiếng mở cửa. Tôi cảm thấy có ai đó hỏi tôi, : "Tại sao anh khóc? Tôi tưởng anh thích đi với tôi". Tôi nói: "Tôi muốn đi lắm, nhưng tôi lo cho cháu tôi, tôi lo vợ tôi không biết cách dạy nó. Tôi đã viết thư rồi, nhưng tôi nghĩ rằng chưa đủ, cần có mặt tôi". Tôi cảm thấy người đó trả lời:" Vì anh nghĩ đến người khác, cầu xin cho người khác, không phải riêng cho anh, do đó tôi sẽ cho anh được như ý muốn, anh sẽ sống cho đến khi cháu anh trưởng thành". Rồi bóng hình ấy biến mất. Tôi không khóc nữa và xé bỏ thơ đi.

Sáng hôm sau cuộc giải phẫu đã xảy ra rất lâu nhưng kết quả tuyệt vời. Khi tôi ngồi dậy được, nhìn quanh thì thấy tôi đã nằm đúng cái giường mà quầng sáng đã chỉ cho tôi.

Trên đây là kết quả những sự khảo sát theo lời kể lại của những người chết đi sống lại. Những người này đã bước qua cửa tử, nhưng mới đến ngõ của thế giới bên kia cho nên chỉ kể lại được bước đầu, chứ chưa vượt qua được ranh giới, chưa đi sâu vào cõi vô hình.


2. Cuộc sống sau khi chết (APRÈS LA MORT)



Nhiều học giả đã cố công tìm hiểu với một phương pháp mới mà họ gọi là Phương pháp thôi miên (magnétisme, hypnotisme),  .

Những điều họ đã nhận thấy được tóm tắt như sau đây:

- Thân xác chỉ là sự phát triển dạng vật chất trong thời gian và không gian ánh sáng còn linh hồn (esprit) là sự vĩnh cửu duy nhất.

- Vũ trụ không phải đột nhiên từ hư không tạo thành. Trong vũ trụ mọi vật biến hóa và phát triển theo các vòng sinh tử bất tận. Trong khi nơi này có những mặt trời tối đi và tắt, những thế giới già cỗi tan biến, thì ở nơi khác có những hệ thống ngân hà mới được tạo thành, với những ngôi sao sáng rực, những thế giới mới nẩy sinh.

- Linh hồn không bao giờ bị tiêu diệt.  

- Cuộc sống của chúng ta trên thế gian là một giai đoạn của đời sống vĩnh cửu. Luật luân hồi đã được chứng minh trong giấc ngủ thôi miên. Những người bị thôi miên đã nói ra những sự việc ghi sâu trong tiềm thức họ trong những cuộc đời đã trải qua mà trí nhớ của con người lúc bình thường không đạt tới được.

- Mục đích tối cao là sự toàn thiện, con đường đi tới đó là sự tiến hóa. Số phận mỗi người trong chúng ta điều như nhau, không có người hơn kẻ kém, duy có con đường đi là khác nhau, người đi nhanh kẻ đi chậm. Do đó, những linh hồn chỉ khác nhau về trình độ tiến hóa.

- Không có thiên đường cũng không có địa ngục. Không có quan tòa nào buộc tội chúng ta, ngoài chính lương tri của ta. Khi lương tri thoát ly khỏi xác thân vật chất thì trở thành sáng suốt, và luật nhân quả là tuyệt đối, bất di bất dịch. Ðời sống hiện tại là cái kết quả của những đời trước. Khi linh hồn chuyển sang một xác thân khác thì đem theo hậu quả của hành vi tốt hay xấu trong đời trước.

- Linh hồn không phải bị trói buộc mãi mãi vào không gian vật chất mà chúng ta đang sống. Khi đã tiến hóa, sẽ thăng lên những thế giới sáng hơn, rồi cứ như thế tiến mãi để đi đến hòa đồng với vũ trụ trong thể năng lượng tối thượng.

 Do đó cái chết không đáng sợ, nó chỉ là một sự chuyển tiếp, một sự đổi mới.  Nó giữ được tất cả bản năng và tất cả những đức tính mà nó đã bồi đắp được trải qua nhiều đời liên tiếp. Ðó là kho tàng quý giá mà chúng ta có thể đem theo để trợ giúp cho ta trong vòng đời tiếp theo.

 Các nhà khoa học đều thống nhất rằng mỗi con người đều có hai phần:

1- Thân xác là cái vỏ vật chất tạm thời, khi chết bị bỏ lại như một cái vỏ kén.

2- Linh hồn là năng lượng tâm lý thể hiện bản chất thông minh, trung tâm sức mạnh, nguồn gốc của lương tri và bản tính con người.

Hai phần ấy hợp lại thành đời sống vật lý, là cơ sở tạo nên vũ trụ. Mỗi người là một tiểu vũ trụ hội tụ đủ các định luật của đại vũ trụ.  

Linh hồn thoát ra khỏi thể xác vật chất và khoác cái vỏ thanh nhẹ có hình dáng người nhưng không lệ thuộc vào những sự câu thúc trần gian, không trông thấy được, không đụng chạm được. Linh hồn là một dạng năng lượng đã lìa khỏi xác thịt và đi vào không gian, rồi sẽ lại sinh ra ở một đời sống vật chất khác, bắt đầu lại cuộc tranh đấu để sinh tồn, cuộc tranh đấu cần thiết cho sự tiến hóa.

 Những cảm giác trước và ngay sau khi tắt thở rất phức tạp và tùy theo tính tình, đức hạnh và trình độ của người lúc sống. Cảm giác càng nặng nề và sự lìa bỏ càng dai dẳng, khi có những sợi dây ràng buộc của linh hồn với thân xác vật lý, với những người khác càng mạnh và càng nhiều. Đó là những người còn luyến tiếc đời nhiều hoặc là những người gây nhiều tội lỗi hay là những tội phạm luôn luôn bị dày vò bởi hình ảnh những nạn nhân của họ.

Những người đã làm xong phận sự, đã phấn đấu và gian khổ nhiều, lòng không còn tha thiết đến trần tục và tin tưởng ở tương lai, thì cái chết là giải thoát. Sự lìa bỏ xảy ra rất nhanh giống như một giấc ngủ nhẹ nhàng, êm ái. Họ hòa nhập vào một vầng sáng tràn ngập, không chói như ánh sáng mặt trời, mà là ánh sáng dịu huyền tràn lan khắp cả, thắm nhuần vào tâm linh khiến cho có cảm giác vui mừng sung sướng. Họ thấy mình bay bổng lên cao, gặp những người thân thuộc xưa kia đến chào đón. Từ đấy linh hồn sẽ bay lên những tầng cao tùy theo trình độ thanh khiết và hành trang điều thiện mà họ tích lũy được.

  Như thế mỗi linh hồn sẽ tự phán xét và là quan tòa của chính mình. Khi đã lìa khỏi cái vỏ vật chất thì tự nhiên sáng suốt dễ dàng kiểm điểm lại hành vi của mình, cân nhắc việc thiện việc ác. Không có tòa án, không có xét xử, chỉ có tự động thi hành. Linh hồn khi thoát xác đã mang trong mình nó thiên đường hay địa ngục.

Linh hồn tiến hóa cao có một đời sống rất năng động. Không có vấn đề về không gian muốn đến đâu là đến tức thì, không còn nhu cầu vật chất, cũng không còn phiền não.   

Tuy nhiên, cũng có những linh hồn phải đầu thai trở lại thân hình xác thịt, một số sẽ chuyển sang thế giới khác cao hơn để tiến, tiến mãi. Trên những tầng cao hơn, đời sống sẽ lâu dài hơn và sung sướng hơn. Khi linh hồn đã trải qua sự phát triển của các tầng năng lượng thì sẽ thoát khỏi luân hồi tiến vào trạng thái vĩnh  cửu.

Muốn được thăng lên những tầng cao, thì trước hết hãy ban ra tình thương, tình thương vô cùng tận. Ðó là gieo mầm phúc cho tương lai.

Thứ Năm, 3 tháng 11, 2011

HIỆN TƯỢNG TÂM LINH (Sưu tầm)


Từ khi loài người xuất hiện trên quả đất, hiện tượng tâm linh đã bắt đầu phát triển. Các nhà khảo cổ, các nhà sử học và nhân chủng học đã khám phá ra nhiều bằng chứng về sự phát minh và phát triển của  tâm linh từ thuở loài người còn sống theo kiểu ăn lông ở lỗ. Các dấu tích về các vật dụng để thờ cúng, từ đá và xương cốt hay các hình vẽ trên các vách đá trong cách hoạt động cho thấy, sinh hoạt thời hỗn mang đó của loài người đã có những buổi lễ tôn vinh thần linh ma quỷ.

 Lý luận của các nhà nghiên cứu về nhân chủng học, dân tộc học thường cho rằng khi con người còn chưa tìm ra được lửa thì mỗi khi màn đêm xuống, nỗi lo sợ đã đổ ập lên người họ, rồi khi sống trong các hang động và khi tìm được lửa thì những hình ảnh chập chờn ma quái in trên vách hang lại càng khiến họ sợ sệt hơn . Từ đó ma quỷ phát sinh nhiều hơn qua trí tưởng tượng họ.  



Năng lượng tinh thần

Những nhà khoa học tiên phong xâm nhập thế giới huyền bí để nghiên cứu tìm hiểu xem năng lượng tinh thần là phần quan trọng trong vấn đề nghiên cứu hiện tượng siêu hình. Theo họ não bộ người là một cái bình Ác-quy siêu đẳng và huyền bí rất nhiều. Bộ não người phát sóng và thu sóng, phát điện và thu điện trong tự nhiên vũ trụ. Tuy nhiên sự vận hành, thu phát, chuyển biến còn tùy ở cơ thể người mang bộ não. Dưới mắt nhà khoa học họ không chỉ tập chú vào các vị Lạt ma, các nhà tu hành nơi các hang động thâm sâu hay trong các đạo viên khuất sau rặng tuyết sơn mà nghiên cứu toàn thể bộ não người. Lý do là những con người không trải qua quá trình tu luyện nào cả nhưng vẫn có được một năng lượng tinh thần rất lớn, họ có thể nhìn xuyên qua vách tường, xuyên qua sắt thép, xuyên qua khoảng cách rất xa. Có người còn dùng năng lượng tinh thần để làm cháy đồ vật hay làm cho các hạt nảy mầm, có người sử dụng năng lượng tinh thần để chữa bệnh hay chuyển di tư tưởng, tiếp nhận ý nghĩ của người khác v.v...

Nga từ lâu đã thành lập Viện nghiên cứu não người. Viện này quy tụ nhiều nhà khoa học lỗi lạc. Họ hy vọng việc nghiên cứu bộ óc sẽ khám phá ra những điều mới lạ, đồng thời mở được cả cánh cửa Huyền môn để vào thế giới mà từ lâu loài người thường cho là thế giới vô cùng huyền bí. Bề ngoài thế giới chỉ biết được mục đích của việc nghiên cứu này ở Moscow là tìm hiểu sự liên hệ giữa bộ óc và thiên tài, năng khiếu của một con người như thế nào. Nhưng tàng ẩn bên trong là những nghiên cứu có liên quan đến các sự kiện vượt ra ảnh hưởng của trường vật lý của quả đất mà con người đang sống. Những sự kiện mà từ lâu con người bán tín bán nghi như ma quỷ, sự xuất hồn hay nhập hồn, sự thông linh, suy đoán tương lai, sự đọc, hiểu tư tưởng kẻ khác hay nghe, thấy từ khoảng cách rất xa theo kiểu thiên lý nhĩ, thiên lý nhãn...

Hoa Kỳ cũng không bỏ qua lãnh vực nghiên cứu này. Viện nghiên cứu bộ não người của họ được trang bị đầy đủ các loại máy móc tối tân với vô số các nhà bác học nổi tiếng tập trung nghiên cứu. Nơi đây các bộ não được lưu trữ không những là của các danh nhân thế giới sau khi qua đời mà còn là của những con người bình thường nhưng có khả năng kỳ diệu về thấu thị, về chuyển di tư tưởng, chữa bệnh qua khoảng cách, nhìn xuyên suốt không gian v.v... Ví dụ như bộ não của Edgar Cayce người Hoa Kỳ, ông chỉ là một người bình thường như bao người khác nhưng vào năm 35 tuổi ông tự nhiên thấy rõ được quá khứ xa xăm của những người bị bệnh ngồi hay nằm trước mặt ông và khi đó ông đi vào giấc ngủ thôi miên.

Năm 1945, ông Cayce biết trước mình sắp qua đời nên ngỏ ý tặng viện nghiên cứu óc não bộ óc của mình để các nhà khoa học tại đây nghiên cứu. Các khám phá từ lâu cho biết bán cầu não phía bên trái là cơ sở quan trọng của tư tưởng trừu tượng, nơi đây có thể là phần quan trọng cho các hoạt động thuộc lãnh vực tâm linh huyền bí. Mới đây, các nhà khoa học còn tìm thấy một cơ phận kỳ diệu khác có liên quan đến hiện tượng tâm linh: đó là tuyến yên nằm trong hốc não. Một khám phá mà Nga trong năm 1995 đã tập trung nghiên cứu là năng lượng bộ não người chết còn khả năng phát điện một thời gian dài. Theo các nghiên cứu về não thì sau khi con người chết đi, dù họ đã sống được 100 năm, năng lượng của bộ não của họ cũng chỉ mới sử dụng một hay hai phần mười mà thôi. Năng lượng còn lại ấy sẽ tiếp tục lan tỏa, truyền đi trong không gian. Chính vì thế mà có hiện tượng mả phát như các cụ xưa thường nói. Theo nghiên cứu của viện nghiên cứu Nga và Pháp thì hiện tượng gọi là mả phát chính là sự cộng hưởng giữa năng lượng hay điện não của bộ não người đã chết với năng lượng hay điện não người sống qua hiện tượng di truyền liên kết.

Nhiều người bình thường như bao người khác, họ không phải là các đại sư đã hằng bao năm khổ hạnh tu luyện trong các hang động, rừng sâu núi thẳm hay các phù thủy lừng danh nhưng đôi khi lại có năng lực kỳ diệu phát sinh từ bộ não.



Tâm linh huyền bí nơi xứ đỉnh trời

Từ xưa đến nay có nhiều nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và tài tử về hiện tượng siêu hình, đã đi sâu vào những nơi mà họ cho là trung tâm của các sự kiện huyền bí, để chứng kiến tận mắt những hiện tượng lạ lùng không thể giải thích được. Thời ấy các nhà khoa học và dân tộc nổi tiếng như James Frazer, R. Muller, William Halse Ricers, Ions Veronica, Mbiti John, Wentz W. E, Osborne Harold... đặc biệt là một người đàn bà, một nữ văn sỉ tên là Alexandra David Neel đã đơn phương độc mã trèo đèo vượt núi trong tuyết lạnh để vào xứ sở của đỉnh trời là xứ Tây Tạng không ngoài mục đích là tìm hiểu tận chỗ những gì thuộc lãnh vực siêu linh huyền bí. Nhờ đó mà thế giới Tây phương mới biết được những cuộc sống lạ lùng của các vị Lạt Ma Tây Tạng, nhất là biết về những năng lực tâm linh kỳ bí của những vị sư sống trong hang động, nơi mà Trời và Đất gần như hòa nhau thành một.

Điểm đặc biệt đáng nhắc đến là nơi đây các vị sư đều có khả năng cao về nhận thức, bộ não luôn luôn được trong sáng nên họ có thể hiểu nhau qua không gian hơn là biểu lộ bằng lời nói hay hành động. Nhờ khả năng đọc được tư tưởng người khác mà nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng biết trước được những gì mà người khác đang dự tính trong đầu. Ngoài ra những vị này còn có khả năng kỳ diệu là phân tích vầng màu sắc tỏa ra từ đầu bất cứ ai để từ đó biết được ý tưởng tốt hay xấu mà người đó đang dự định. Năng lực của con mắt thứ ba: Thần nhãn hay Huệ nhã.

Trở lại vấn đề khả năng thông hiểu ý tưởng kẻ khác cũng như thấy rõ và phân biệt vầng màu mà các vị Lạt Ma Tây Tạng có được thì đó lại là sự kiện có vẻ bình thường đối với người dân Tây Tạng. Lý do dễ hiểu là từ tấm bé, họ đã được cha mẹ kể cho nghe chuyện cổ tích về người Tây Tạng thời cổ xưa, theo chuyện cổ này thì thời xưa ấy, người Tây Tạng ai cũng có một nhãn lực đặc biệt, nhãn lực này không phải từ đôi mắt thông thường của con người mà là từ một con mắt thứ ba này mà người xưa gọi là Thần nhãn hay nói theo kinh điển là Huệ nhãn. Về sau, vì con người bị lôi kéo dần vào đường vật chất, ích kỷ, tham lam, sân hận, mê mờ nên trí óc không còn trong sạch, sáng suốt. Cuối cùng như tấm gương bị bụi mờ che kín, con mắt thứ ba trở thành u tối không còn sử dụng được nữa ( Điều này hoàn toàn rõ ràng đối với các Thày tâm linh được ăn lộc. Nhiều Thày chỉ nổi được vài năm sau vì tham nên bị mất khả năng). Các nhà nghiên cứu về Huệ nhãn đã bắt gặp trong giới động vật hình ảnh trung thực nhất về con mắt thứ ba một cách rõ rệt không chối cãi. Tuy nhiên câu hỏi tại sao lại có sự hiện hữu và công dụng thực tế thì lại còn lắm mơ hồ. Đặc biệt lạ lùng là ngay trong giới động vật có xương sống cấp dưới thì lại thấy hiện một cấu tạo giống như cấu tạo mắt bình thường, nghĩa là cũng có dây thần kinh, thủy tinh thể và võng mạc... Ngay cả loài cá, lưỡng thê, bò sát, chim, cả động vật có vú kể cả con người cũng đều có dấu tích con mắt thứ ba. Khi khảo sát bộ xương của loài khủng long thời tiền sử, các nhà cổ sinh vật học cũng chú ý tới một chỗ lõm nơi phần sọ của loài bò sát khổng lồ này và đã đoán nơi đây là vị trí của một cơ quan thị giác hay nói theo suy tưởng của sự kiện đang bàn là "con mắt thứ ba". Công dụng của con mắt này có lẽ để giúp các loài động vật thời cổ không những thấy mà còn biết thêm hay cảm nhận trước được tình trạng chung quanh như mưa, gió nhất là các vật thể nằm khuất ở vị trí phía trên đầu. Những khám phá mới đây nhất (1996) của một số nhà khoa học đã cho biết là trong não người có một cái tuyến tuy rất nhỏ, chỉ bằng hạt đậu xanh nhưng nhiệm vụ của tuyến này rất kỳ diệu, chỉ tiết ra loại nhân hóa tố đặc biệt với một lượng rất nhỏ trong trường hợp con người đang chú tâm cầu nguyện với tất cả thành tâm hay vào các giai đoạn con người ở tình trạng nguy biến, thập tử nhất sinh. Cái tuyến lạ lùng đó là tuyến yên (Pineal gland). Khi hoocmon của tuyến đi vào máu thì cơ thể sẽ có những phản ứng kỳ diệu bất ngờ mà lúc bình thường không có được. Các nhà sinh vật học còn khám phá ra rằng tuyến Pineal gland còn có liên quan tới bộ phận mà người Tây Tạng gọi là con mắt thứ ba.

Chỉ những ai chịu vứt bỏ lòng tham luyến sân si mê mờ, quyết tâm giữ lòng trong sạch và tu trì mới có được Huệ nhãn. Chính phần lớn các vị Đại sư Tây Tạng, những người ẩn cư nơi vùng núi cao tuyết giá hay trong các Đạo viện thâm nghiêm là có thể có năng lượng thượng thừa ấy mà thôi. Tuy nhiên theo các vị đại sư thì không phải tất cả các vị chân tu Tây Tạng đều có Thần nhãn hay Huệ nhãn như ta tưởng, vì muốn có được Thần nhãn thì người đó phải hội đủ các điểm cần yếu như đã nói trên mà còn phải có Thần lực đặc biệt kết hợp với các pháp môn tu luyện cao siêu mới được. Phép tu luyện cao siêu đó có mục đích là để khai mở Huệ nhãn. Một khi đã có Huệ nhãn rồi thì dù ngồi tĩnh tọa trong viện, nơi núi cao hay trong rừng sâu vẫn có thể thấy được những gì xảy ra ở khoảng cách rất xa, hay chuyển di tư tưởng đến một nơi nào đó cho ai.

Tại Tây Tạng, nơi nhiều Đạo viện thường có những buổi thực tập về phép chuyển di tư tưởng giữa các hàng đệ tử trong giai đoạn tu luyện các phép thần thông. Phương cách thực tập rất khoa học. Lúc đầu hai người đệ tử ngồi cạnh nhau để chuyển tư tưởng cho nhau. Khi bắt được tư tưởng của nhau rồi thì khoảng cách tĩnh tạo giữa hai người này sẽ được chuyển ra vị trí xa hơn. Cứ thế mà về lâu về dài họ có thể đạt tới khả năng truyền tư tưởng cho nhau qua khoảng cách rất xa: hoặc từ thiền viện này đến thiền viện khác, từ hang động này đến hang động khác... Theo bà Alexandra David Neel thì ở dãy Hy Mã Lạp Sơn nơi tuyết phủ im lìm hoang vắng quanh năm nhưng lại là nơi các luồng năng lượng cao siêu của các vị ẩn tu giăng bủa khắp nơi.